Mầm xuân Nậm Búng

  • Cập nhật: Thứ sáu, 18/1/2008 | 12:00:00 AM

YênBái - YBĐT - Nậm Búng chính là nơi Lâm trường Văn Chấn, tỉnh Yên Bái đóng bản doanh, đang thực hiện một dự án đầy triển vọng về cây chè Shan với diện tích 300 ha trên đất trống đồi núi trọc Gia Hội và Nậm Búng.

Lạ gì, tôi đã từng đi thăm những vùng chè rộng lớn, sản xuất ra các loại chè thơm ngon nức tiếng ở Lâm Đồng, Thái Nguyên, Phú Thọ, Hà Giang, Sơn La, Tuyên Quang. Vinh danh cho những vùng chè đó là nhờ có các giống chè mới chọn lọc PH1, TRI 777, LDP1, LDP2, 1A, đặc biệt là các giống chè nhập nội có nguồn gốc từ Trung Quốc và Đài Loan như giống chè Bát Tiên, Kim Tuyên, PT95, Keo Am Tích, Hùng Đỉnh Bạch, Ô Long, Phúc Vân Tiên, Thúy Ngọc.

Ngay ở Yên Bái này cũng có trên 13.000 ha chè, thứ nhì cả nước, trải rộng khắp các huyện Trấn Yên, Yên Bình, Văn Yên, Văn Chấn với nhiều giống chè nhập nội quí hiếm như thế, nhưng còn có một giống chè Việt Nam cũng rất nổi tiếng là giống chè Shan Suối Giàng – Văn Chấn, ở độ cao trên 1371 m.

Chính giống chè Shan này đã được các nhà khoa học ở Viện khoa học Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tạo giống bằng phương pháp giâm cành, giúp Lâm trường Văn Chấn  đưa về thực hiện Dự án trồng chè Shan thâm canh ở xã Gia Hội và Nậm Búng.

Chuyện trồng chè tưởng thường nông, chẳng có gì đáng nói, nhưng với Gia Hội – Nậm Búng thì quả là một câu chuyện dài “nhiều tập”. Chẳng thế mà chưa kịp nghỉ sau chặng đường dài mệt mỏi, tôi đã phải ngồi dí bên bàn nước để nghe Giám đốc Phạm Mạnh Đoài kể lể say sưa về dự án chè Shan của Lâm trường.

Anh kể chuyện dự án mà như kể chuyện trong nhà mình. Đấy, diện tích đất tự nhiên cả vùng 13.494 ha, đất có rừng 8.508 ha, đất không có rừng và đất khác 4.331 ha, đất sản xuất nông nghiệp thì chỉ 653 ha. Vì thế, cuộc sống của gần 8.000 người thuộc các dân tộc Thái, Dao, Dáy, Kinh, thật sự khó khăn, nghèo đói. Làm ruộng nương không đủ ăn, nhiều người dân phải đi chặt phá rừng mà kiếm sống.

Rừng Gia Hội - Nậm Búng vốn xanh tươi ngút ngàn, dần dần hoang tàn, khiến cho đất “chảy máu”, trơ trọi. Công nhân Lâm trường Văn Chấn cùng với dân trong vùng  phải mất nhiều năm mải miết vá rừng, trồng rừng và khoanh nuôi, bảo vệ rừng.

May thay, cái Dự án trồng chè Shan giâm cành đã đặt đúng chỗ đang cần cứu giúp. Lập tức, tỉnh Yên Bái và Lâm trường hỗ trợ vốn, nông dân cũng được vay vốn theo chương trình ADB, tất cả cho vùng dự án 13 tỷ 836 triệu đồng. Cũng may thay, cái vùng đặt dự án này thích hợp với giống chè Shan.

Trên thực tế mấy năm qua, cây chè Shan ở đây đã và đang thể hiện tính ưu việt của nó. Mấy chục công nhân Lâm trường cùng với hơn 4.000 lao động mà chủ yếu là người dân tộc thiểu số đang mê mải với đất đai, giống má. Vì  làm đất cũng có tiền, làm bầu cũng có tiền, làm giống cũng có tiền, chăm sóc cũng có tiền, bán chè Shan búp tươi càng nhiều tiền.

Người Thái, người Dao, người Dáy vùng này không còn nghèo đói nữa. Họ bắt đầu nghĩ cách làm giầu từ chính cây chè Shan. Người dân tộc thiểu số không đi chém giết rừng của mình nữa. Họ không sống bản năng như con nai con chồn trên rừng Nậm Búng - Gia Hội nữa. Họ bắt đầu ý thức phải giữ rừng, giữ môi trường sinh thái, phải mau chóng phủ xanh đất trống đồi trọc. Họ bắt đầu ý thức tiếp thu khoa học kỹ thuật vào việc chọn đất, chọn giống, cách trồng và chăm sóc cây, cách hái búp và tiếp thị bán hàng...

- Vâng, những điều ấy chắc là có trong báo cáo cả rồi! - Mãi tôi mới cắt ngang được mạch kể của anh Đoài, vẻ sốt ruột - Đến nay Lâm trường đã trồng được bao nhiêu ha? Khả năng thu hoạch thế nào?
- Từ năm 2002 đến năm 2007 được 278,34 ha. Trong đó 150 ha đã cho thu hoạch, sản lượng búp tươi đạt khoảng 400 tấn/ha.- Anh Đoài đưa tay vuốt ngược mái tóc, giọng sôi nổi.
- Còn việc chế biến?
- Mới bắt đầu thôi mà!

Anh Đoài lảng cái chuyện chế biến, liền dẫn tôi sang xem Nhà máy chế biến chè Shan Nậm Búng, ngay cạnh trụ sở Lâm trường, nhà máy mới đang ở giai đoạn1, công suất: 7tấn/ngày. Nhà máy đang ngừng hoạt động vì hết mùa búp tươi. Anh Đoài vào chỗ công nhân đang đóng gói, lấy mấy hộp chè đưa tôi xem. Chưa kịp trao đổi gì về những hộp chè Shan-  sản phẩm mới nhất trong “làng” chè Việt Nam- thì anh Đoài tự lái ô tô đưa tôi đi thăm những đồi chè mới đốn.

Lên đến đồi chè, anh Đoài đứng lặng. Tôi biết anh đang  chăm chắm nhìn những vồng chè đã đốn bằng lịa, chạy hun hút về phía những ngôi nhà sàn bản Thái, những ngôi nhà bản người Dao, người Dáy lẩn khuất bên vườn rừng, bếp đang tỏa khói lam lẫn vào sương chiều trắng mờ.  Mơ mộng và suy tư một chút, rồi anh lại say sưa kể bao nhiêu chuyện về kỹ thuật làm chè, từ khâu chọn giống, chọn đất, thiết kế đồi chè đến việc trồng mật độ 16.000 cây/ha tiêu chuẩn, rồi chăm sóc, thu hái, vân vân. 

Ô - tôi thầm nghĩ - tưởng chỉ nghề chơi mới lắm công phu, ngẫm ra, nghề nông mới thật lắm công phu. Xưa nay chỉ quen thói thưởng trà lúc vui bạn bè, khi lễ tết, cưới xin, rồi thưởng trà ở mức văn hóa cao là “trà đạo”, tôi đâu hiểu để có một chén trà thơm ngon, tinh khiết cho mình cho người, thì người nông dân đã phải năm nắng mười sương như thế nào, nhà doanh nghiệp phải thao thức, lo toan tính toán một cách tỉ mỉ và khoa học như thế nào.

Nhìn đồi chè nức mắt, tôi bỗng nhớ những lần qua đây, hơn mười cây số dọc Quốc lộ 32 từ Gia Hội lên Nậm Búng, những vồng chè mới đốn kia gặp mưa Xuân bỗng trở thành những con sóng xanh lượn tít tắp vỗ dồn mãi lên chân núi, hòa vào cái mầu xanh tít của rừng Gia Hội - Nậm Búng. Rồi đây những con sóng xanh ấy lại được nối tiếp suốt từ Chiềng Pằn - Min Nọi sang Nam Vai, từ Hải Chấn đến Nậm Cưởm - Chấn Hưng... cứ gọi là tít tắp tít tắp!

Tôi đứng ngẩn rất lâu trên đồi chè, khi nghe gọi mới quay xuống. Xuống để về xem vườn giâm cành chè Shan. Vào vườn ươm giống anh Đoài lại kể, phương pháp nhân giống là phương pháp giâm hom để giữ nguyên được phẩm chất, chất lượng tốt của cây mẹ chè Shan Suối Giàng...

Tôi ngồi xuống, đưa tay vuốt vuốt những mầm cây bên nách lá- những mầm cây chè Shan mập mạp như được phết một lớp sương rừng trắng bạc, đương trổ vụt lên trong nắng vàng hoa cải Nậm Búng.

Say sưa nên mãi tắt nắng chúng tôi mới trở về Văn phòng Lâm trường. Anh Đoài loay hoay tìm tài liệu. Tôi thì mải ngắm nghía cái hộp chè được thiết kế mỹ thuật khá hấp dẫn, có mã vạch hẳn hoi. Tôi không nói, nhưng chắc anh Đoài cũng biết hiện nay trên thị trường có bao nhiêu sản phẩm chè nổi tiếng, có uy tín cả chất lượng lẫn mẫu mã, giá cao ngất.

Sẽ phải cạnh tranh ác liệt đấy! Nhưng không sao, thị trường trong nước đã rộng, thị trường nước ngoài còn rộng lớn hơn nhiều. Bên cạnh thị trường chè ở 60 nước, ngành chè Việt Nam còn có quan hệ với Hiệp hội chè các nước Ấn Độ, Pakittan, Nga, Đài Loan, Trung Quốc, sẽ tạo nhiều cơ hội tốt cho chè Shan Nậm Búng chất lượng cao. Tất nhiên, mỗi sản phẩm đều tìm được con đường riêng cho mình. Cái tài của nhà doanh nghiệp là ở chỗ đó.

Tôi chợt ngoảnh nhìn anh Đoài, thấy mái tóc đã pha sương, nước da nâu màu nắng gió, chỉ giọng nói vẫn sôi nổi và ánh mắt, nụ cười tươi sáng. Ánh mắt, nụ cười của người giàu nhiệt huyết và đầy tự tin. Tự tin việc xây dựng chắc chắn  một vùng nguyên liệu thuần chủng cây chè Shan bản địa quí giá. Tự tin việc xây dựng thành công thương hiệu Chè tuyết Shan Nậm Búng cho riêng mình. Tự tin rằng, những người dân tộc thiểu số ở đây đang được cơ hội tiến lên một trình độ cao hơn để có thể tham gia vào nền sản xuất hàng hóa, hòa nhập vào nền kinh tế thị trường, như vậy, họ chắc chắn ấm no, mai sau sẽ trở nên giầu có và văn minh. Vâng, phải tự tin thế mới là người có thể thành công trên mảnh đất đầy gian khó này.

Tự nhiên tôi ngồi lặng đi, một lúc, nâng chén trà Shan tỏa khói đặt lên môi, cái hương vị trà Shan tinh khiết, dìu dịu thơm ngọt cứ rưng rưng dâng lên. Ấy là bởi cây chè Shan suốt năm tháng uống sương sa, nắng gió của rừng núi xanh tươi Gia Hội – Nậm Búng, ăn chất khoáng và nước từ mạch ngầm đá mẹ Liparit triệu năm và từ bao nguồn sinh thủy trên núi rừng Gia Hội –  Nậm Búng. Tất cả đều tinh khiết, trong lành như đất trời Gia Hội – Nậm Búng.

Thật lạ, nâng chén trà mà tôi cứ hình dung ra trước mắt những chiếc mầm cây chè Shan mập mạp như được phết một lớp sương rừng trắng bạc, đương trổ vụt lên trong nắng vàng hoa cải. 

Phải rồi, đó là cái sức vươn của mầm Xuân Nậm Búng!

Hoàng Thế Sinh (Nậm Búng, bên thềm Xuân Mậu Tý 2008)

Các tin khác
Đoàn viên, thanh niên huyện Mù Cang Chải giúp dân vùng lũ dậy lại nhà cửa

Hậu quả trận mưa lớn kèm lũ quét những ngày đầu tháng 8 là nỗi đau, mất mát không gì bù đắp của người dân vùng tâm lũ Mù Cang Chải, đặc biệt là đồng bào các xã Hồ Bốn, Lao Chải và Khao Mang. Song, cũng chính trong lúc đau thương đã sáng lên câu chuyện tình người giúp nhau qua cơn hoạn nạn.

Bà Trần Thị Bích.

Trong hai ngày 12 và 13/6/2023, Báo Yên Bái đăng tải phóng sự (2 kỳ) với nhan đề “Xung quanh việc bà Trần Thị Bích tổ chức cai nghiện ma túy” của tác giả Lê Xuân Trường. Bài viết đã nhận được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc. Sau khi bài viết được đăng tải, bà Trần Thị Bích (nhân vật trong bài viết), người tổ chức cai nghiện tại thị xã Nghĩa Lộ có đơn đề nghị gửi Báo Yên Bái.

Măng Bát Độ được người dân xã Kiên Thành thu hoạch, mang bán tại các cơ sở thu mua tập trung.

Tròn 20 năm bén duyên đất Trấn Yên, đến nay, cây tre măng Bát Độ đã phủ xanh những triền đồi, cánh rừng ở các xã vùng cao Hồng Ca, Kiên Thành, Lương Thịnh, Hưng Khánh. Khẳng định được vị thế của mình là cây trồng đa lợi ích cho người dân, cây tre măng Bát Độ đã góp phần đổi thay diện mạo, đưa Trấn Yên trở thành huyện nông thôn mới đầu tiên của tỉnh Yên Bái và các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc.

Hiện nay, những bản làng xa xôi của huyện Mù Cang Chải đang ngày một đổi thay, đời sống nhân dân cải thiện rõ rệt... Đây là minh chứng cho sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước, sự quyết tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự bám sát thực tiễn, phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, ý chí, khát vọng vươn lên trong triển khai, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống ở nơi vùng cao đặc biệt khó khăn.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục