Yên Bái là tỉnh miền núi thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc, là khu vực có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất so với cả nước. Dân số của tỉnh trên 84 vạn người với hơn 30 dân tộc cùng sinh sống; trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 57,4%, dân cư nông thôn chiếm gần 80%, lao động nông nghiệp chiếm gần 60%.
Toàn tỉnh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 2 huyện vùng cao đặc biệt khó khăn là Trạm Tấu và Mù Cang Chải với trên 90% đồng bào dân tộc thiểu sổ, chủ yếu là người Mông. Toàn tỉnh có 173 xã, phường, thị trấn, trong đó có 59 xã và 382 thôn đặc biệt khó khăn.
Bước vào đầu giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh là 32,21%, cao thứ 6 so với cả nước, sau 5 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) giảm nghèo bền vững, tỉnh Yên Bái đã kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 4,76% (năm 2021), cải thiện 10 bậc so với đầu nhiệm kỳ (bình quân giảm 5,03%/năm), tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm bình quân 7,66%/năm, cao hơn nhiều so với bình quân chung toàn tỉnh và cả nước.
Hết năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 12,92%, ước năm 2023 tỷ lệ hộ nghèo giảm 3,76%, hết năm 2023 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 9,16%. Điều kiện cơ sở hạ tầng, thu nhập và đời sống hộ nghèo, hộ cận nghèo, đặc biệt tại các huyện nghèo, địa bàn đặc biệt khó khăn của tỉnh đã có sự cải thiện rõ nét.
Để đạt được kết quả trên, tỉnh Yên Bái đã có nhiều giải pháp đồng bộ và cách làm hiệu quả trong công tác giảm nghèo, cụ thể:
Thứ nhất là, tỉnh Yên Bái đã đặc biệt quan tâm đến công tác giảm nghèo, đồng thời huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân các dân tộc trong công tác giảm nghèo. Riêng đối với tỉnh Yên Bái, hàng năm Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, trong đó có nhiệm vụ giảm nghèo, đồng thời ban hành Kế hoạch của Tỉnh ủy về thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, trong đó xác định rõ chỉ tiêu giảm nghèo đến từng địa phương và phân công trách nhiệm cụ thể cho các sở, ban, ngành, đoàn thể giúp đỡ các hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn theo phương châm "giao nhiệm vụ, khoán sản phẩm” (mỗi năm vận động, giúp đỡ trên 1.000 hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn thoát nghèo).
Hai là, mặc dù là tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn, song ngay từ đầu nhiệm kỳ, tỉnh Yên Bái đã quan tâm ban hành các nghị quyết, chính sách đặc thù của địa phương lồng ghép với các chính sách của trung ương nhằm thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều như: chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, làm đường giao thông nông thôn, chính sách hỗ trợ giáo dục, y tế, đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo nghề…
Qua đó, chất lượng giáo dục, đặc biệt là giáo dục vùng cao, giáo dục dân tộc, tỷ lệ trẻ em đi học đúng độ tuổi tăng (Yên Bái là tỉnh thứ 2 trong khu vực Tây Bắc và là tỉnh thứ 24/63 tỉnh, thành phố được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 vào năm 2021; đứng thứ 18/63 tỉnh, thành phố được công nhận
đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2 vào năm 2023). Chất lượng chăm sóc sức khỏe ngày càng nâng cao, hết năm 2022, toàn tỉnh đã đạt 10,8 bác sỹ/1 vạn dân và 34,6 giường bệnh/1 vạn dân; tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế đạt 89%.
Chú trọng thực hiện chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm, đặc biệt quan tâm xóa nhà dột nát cho hộ nghèo, năm 2023, tỉnh Yên Bái đã ban hành Đề án hỗ trợ làm nhà cho hộ nghèo, hộ cận nghèo với mục tiêu làm mới trên 3.000 căn nhà trong năm 2023-2024 bằng việc lồng ghép các nguồn lực từ CTMTQG và nguồn xã hội hóa, trong đó nguồn ngân sách từ 2 CTMTQG chiếm gần 56%, còn lại là nguồn ngân sách tỉnh và xã hội hóa chiếm trên 44% (đến nay đã khởi công được gần 1.600 nhà, năm 2024 dự kiến làm trên 1.400 nhà). Vào các dịp Tết Nguyên đán, tỉnh đã quan tâm tặng quà tết cho 100% hộ nghèo trên địa bàn tỉnh.
Thứ ba, đặc biệt, tỉnh đã tập trung lồng ghép, huy động các nguồn lực (ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, nguồn xã hội hóa) từ các chương trình, dự án để thực hiện mục tiêu giảm nghèo, tập trung đầu tư xây dựng hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là hệ tầng đường giao thông nông thôn, thủy lợi, cơ sở khám chữa bệnh, trường học, hạ tầng phát thanh, truyền hình, viễn thông, ưu tiên cho các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhằm tạo thuận lợi cho việc mở rộng, phát triển sản xuất, kết nối giao thương, nâng cao thu nhập và khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội thiết yếu của người dân, nhất là hộ nghèo, hộ cận nghèo.
Bốn là, tỉnh đã đặc biệt quan tâm làm tốt công tác tuyên truyền vận động, tạo sự thay đổi trong nhận thức của các cấp chính quyền, người dân, nhất là các hộ nghèo, hộ cận nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số về giảm nghèo, khơi dậy ý chí tự giác, nỗ lực vươn lên thoát nghèo của người nghèo, không trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước (qua các năm đã có nhiều hộ nghèo làm đơn tự nguyện thoát nghèo).
Năm là, trong việc triển khai thực hiện 3 CTMTQG giai đoạn 2021-2025, CTMTQG giảm nghèo được xác định là giải pháp quan trọng quyết định thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững. Đến nay, tỉnh Yên Bái đã ban hành tương đối đầy đủ các nghị quyết, kế hoạch, các văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình theo phân cấp quản lý, phân công nhiệm vụ cho các lãnh đạo tỉnh, sở, ban, ngành trong việc thực hiện các dự án, tiểu dự án, họp đánh giá tiến độ thực hiện.
Đến nay, tiến độ giải ngân nguồn vốn thuộc Chương trình đạt 260/485 tỷ đồng (đạt 54%), trong đó giải ngân vốn đầu tư phát triển thuộc nhóm các tỉnh có tỷ lệ giải ngân cao. Tỉnh đã đẩy mạnh phân cấp cho các địa phương thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư, dự toán nhiệm vụ thực hiện chương trình, rút ngắn thời gian thẩm định dự án, tăng cường hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các địa phương triển khai thực hiện.
Trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình, do là những năm đầu triển khai thực hiện chương trình ở giai đoạn mới, ngoài những khó khăn, vướng mắc đã được Chính phủ và các bộ, ngành giải quyết, tỉnh Yên Bái gặp một số khó khăn như:
Việc phân bổ nguồn sự nghiệp ngân sách Trung ương chi tiết theo từng dự án, tiểu dự án theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, văn bản Bộ Tài chính dẫn đến các địa phương gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về đối tượng, phạm vi khi thực hiện phân bổ vốn cũng như triển khai thực hiên các dự án, tiểu dự án hàng năm. Có những dự án có nhu cầu, đối tượng nhiều, dễ thực hiện nhưng được giao mức vốn thấp (Dự án 5, Hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn huyện nghèo); dự án đang vướng mắc về đối tượng thụ hưởng, khó thực hiện chỉ tiêu được giao mức vốn cao (như Dự án phát triển giáo dục nghề nghiệp vùng nghèo, vùng khó khăn).
Mặc dù đã được quan tâm đầu tư, song hệ thống cơ sở hạ tầng tại 2 huyện nghèo trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn, thiếu đồng bộ, dẫn đến khó khăn trong việc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập và đời sống người dân, trong khi đó, nguồn vốn hỗ trợ của Dự án 1, Hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế xã hội các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn còn thấp so với nhu cầu.
Do vậy, tỉnh Yên Bái đề xuất, kiến nghị như sau:
Một là, Chính phủ, Bộ Tài chính xem xét giao kế hoạch vốn sự nghiệp hằng năm theo mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình (giống như Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới), không giao chi tiết cho từng tiểu dự án, dự án thành phần, đồng thời cho phép các địa phương điều chỉnh linh hoạt vốn sự nghiệp ngân sách trung ương năm 2023 của các dự án, tiểu dự án thành phần của Chương trình.
Hai là, đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các bộ ngành liên quan báo cáo Chính phủ xem xét bố trí, bổ sung thêm các nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho các huyện nghèo nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của người dân và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các huyện nghèo với các địa bàn khác./.
...................................
* Đầu đề do tòa soạn Báo Yên Bái đặt.